Nhà văn Nguyễn Tuân đã viết về tiếng Việt như thế này:
"Nghĩ về sự đầy đủ, trong trẻo, đẹp đẽ sáng sủa, và sang giàu của tiếng nói Việt Nam, có những lúc tôi ngừng lại đó trang sách đọc, tôi ngừng lại đó câu viết chưa xuống dòng... mà nhìn trân trân tờ giấy bỏ dở. Tôi nhìn trân trân vào giữa khoảng không ngoài cửa sổ lộng trời xanh, và lòng thấy dào dạt lên những lời cảm ơn. Tôi lặng cúi xuống mặt trang giấy trắng tinh đang om sòm những tiếng mời chào kia mà nói bật lên những lời biết ơn đối với đất nước ông bà tiên tổ. Thấy chịu ơn rất nhiều đối với quê hương ông bà đã truyền cho tôi thứ tiếng nói đặm đà tôi hằng nói từ những ngày mới chào đời... Trong hương hỏa thừa hưởng đây, lẫn vào vô số thanh âm từ điệu, thấy như hiển hiện lên không biết bao nhiêu là mồ hôi và máu huyết của đời đời ông bà khai rừng, vỡ ruộng, mở cõi, giữ nước, chống giặc, tiến lên tới đâu là xây dựng ngôn ngữ tới đó. Nay mỗi lần đụng tới di sản nhiệm màu ấy, thấy bổi hổi, bồi hồi, như vấn vương một cái gì thiệt là thiêng liêng vô giá mà tất cả trữ kim, trữ ngân của tất cả ngân hàng thế gian cũng không sao đánh đổi được" ...
(Về tiếng ta, Tạp chí Văn học số 3-1966)
Vậy đó, tiếng ta !
Trước cách mạng, chàng thanh niên Nguyễn Tuân khoái thú chủ nghĩa xê dịch, khoái thú với trò chơi, ngón nghề điệu nghệ, kỳ độc mà trở thành nhà văn. Và viết văn cũng là để chơi chữ, để tạo nên sự kỳ độc. Ðó là những Chém treo ngành, Những chiếc ấm đất... Những đoạn văn tả về lão đao phủ Bát Lê, về lão ăn mày đi ăn xin chén trà, cầu kỳ uống và phát hiện trong bình trà có lẫn mùi trấu của Nguyễn Tuân thật khó quên. Một Nguyễn Tuân "tháp ngà" như thế đã đội mũ sắt, hăng hái đi khắp các trận địa tên lửa, cao xạ từ Yên Viên đến Thượng Ðình trong những ngày đánh Mỹ, dù bom lửa vẫn không quên nhâm nhi một cốc bia chiều Hà Nội để tối dào lên cảm xúc, vảy ngọn bút tài hoa làm nên một cái "Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi" đầy không khí trận mạc và bình tĩnh, cao vợi một thế đứng người Hà Nội: "Phóng vào tới đâu, đội hình Hoa Kỳ đều bị lửa đạn Hà Nội chẻ ra, xé ra, đường bay rối loạn, rồi cút chạy, nếu chưa tan hết từng mảnh vụn. Chợ Ngọc Hà không phải là vỡ chợ, mà chính là xác thù đã vỡ tan trên một buổi chợ chiều"... "Trong ba mươi ngàn tám trăm chín mươi sáu gốc cây tươi phố Hà Nội, cây xà cừ châu Phi và cây sấu rụng nhiều nhất, giúp thêm chất đốt cho bữa cơm chiều của Hà Nội hôm nay ăn muộn hơn mọi chiều không có tàu bay Mỹ" ...
Nhà văn Nguyễn Tuân sinh ngày 10-7-1910 trong một gia đình nhà nho. Ông cụ thân sinh ra nhà văn từng đỗ cử nhân trong khoa thi Hán học cuối cùng sau đổi thành nghề ký lục.
Nguyễn Tuân viết báo, làm văn từ năm 1937 với các bút danh Nhất Lang, Thanh Thủy, Ngột Lôi Quật, Thanh Hà, Tuấn Thừa Sắc, n Ngũ Tuyên... Năm 1940, ông cho xuất bản Vang bóng một thời; in tại Nhà in Tân Dân, làm cho tác giả ngay lập tức được vang tiếng trên văn đàn.
Nếu còn sống, vào tháng 7-2010 này, nhà văn Nguyễn Tuân tròn 100 tuổi. Nhưng ông đã "trăm năm" vào ngày 28-7-1987. Ông đã thênh nhẹ gót hài từ giã cõi trần sau khi đã thấu hiểu "trăm năm trong cõi người ta"; đã phấn đấu và nhìn thấy sự độc lập, thống nhất của nước nhà; thấy vận hội mới của đất nước; mãn nguyện với cháu con phương trưởng, người vợ hiền tần tảo, thủy chung; mãn nguyện với tinh huyết, sức óc của mình bày giãi lên những tờ hoa, cái bị gió cuốn đi nhưng có lẽ vẫn có nhiều cái bền cùng tuế nguyệt.
Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Nguyễn Tuân có các tác phẩm Vang bóng một thời, Nhà bác Nguyễn (1940); Một chuyến đi, Chiếc lư đồng mắt cua, Tuỳ bút I (1941); Tùy bút II, Tóc chị Hoài, Thiếu quê hương (1943); Nguyễn (1945). Những tác phẩm này thường đi tìm cái lạ, cái sâu xa nào đó trong lịch sử đã mất hoặc trong tưởng tượng; nhằm thể hiện "cái tôi" tài hoa, độc đáo và cũng thể hiện sự bất hòa, chối từ với cuộc sống hiện tại dưới ách nô lệ của thực dân, phong kiến.
Cho nên khi cách mạng về, ông mê say, ông bừng bừng nhiệt huyết, mọi tế bào đều tỉnh sáng. Nguyễn Tuân kể lại: "Mê say với ánh sáng trắng vừa được giải phóng, tôi là một dạ lữ khách không mỏi, quên ngủ của một đêm phong hội mới". Ông say mê tham gia kháng chiến trên mọi cương vị. Năm 1948, trong Ðại hội thành lập Hội văn nghệ Việt Nam, ông được bầu giữ chức Tổng thư ký từ đó cho đến năm 1958. Tham gia kháng chiến, tham gia tích cực công tác xã hội, ông cũng tích cực viết.
Sau cách mạng, Nguyễn Tuân có Chùa Ðàn (1946), Ðường vui (1949), Tình chiến dịch (1950), Tùy bút kháng chiến (1955), Sông Ðà (1960), Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (1972)... Những sáng tác của Nguyễn Tuân có thể có chỗ cầu kỳ quá ngưỡng, nhưng Nguyễn Tuân viết cái gì cũng hứng khởi, chân thành, đậm đà bản sắc dân tộc, đậm nét tài hoa của người Hà Nội.
Tôi rất tán đồng với đánh giá của nhà giáo Nguyễn Hoành Khung trong Từ điển văn học: "Một tinh thần dân tộc thiết tha, nhất là đối với những giá trị văn hóa cổ truyền, quán xuyến toàn bộ sáng tác của Nguyễn Tuân. Chính tinh thần dân tộc là sức mạnh bên trong làm cho nhà văn chủ động tiếp nhận ánh sáng của cách mạng, vững bước trên con đường văn nghệ phục vụ Tổ quốc"; "Với một phong cách nghệ thuật độc đáo, một trình độ sử dụng tiếng Việt bậc thầy, Nguyễn Tuân có đóng góp to lớn vào sự phát triển của văn xuôi Việt Nam hiện đại".
Trong nghệ thuật có hai điều quý nhất, đó là được phục vụ và phục vụ được nhân dân mình, Tổ quốc mình, đồng thời tạo nên được sự độc đáo, khác biệt. Nhà văn Nguyễn Tuân có cả hai điều ấy.
Kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông, có nhiều hội thảo, hoạt động tưởng niệm.
Nhưng có lẽ có ý nghĩa đặc biệt đối với ông, thỏa ý thích của ông, là việc gia đình cho xuất bản lại tác phẩm Vang bóng một thời và nhạc kịch Cỏ độc lập (1946), theo bản in sớm nhất, đắc ý nhất trên giấy dó. Rất dân tộc, rất sang.
Nguyễn Tuân khi đánh giá về nhà thơ Tú Xương đã cho rằng, đó là người "có cái dáng điệu thong dong tự tại", "đã cất nổi một tiếng gọi bên sông văn thì vẫn có tiếng đồng điệu vọng trả lời sang". Có thể vận câu ấy với chính Nguyễn Tuân vậy.
Nguồn: Báo Nhân dân (Nguyễn Sĩ Đại)