Menu Chuyến tàu văn học

Vì sao Thị Nở phải xấu?

Cập nhật 08:34, 30/08/2023 Cô Ngọc Anh

Lâu nay dân gian vẫn lưu truyền câu ca: “Trông xa cứ tưởng nàng Kiều/ Lại gần mới biết người yêu Chí Phèo”. Không chỉ đích danh, nhưng ai cũng biết “người yêu Chí Phèo” là Thị Nở, người tình duy nhất trong cuộc đời u tối của Chí. Cứ theo câu ca trên thì Thị Nở tồn tại trong tâm lý dân gian như là hiện thân của cái xấu; đối nghịch của cái đẹp; phản thẩm mỹ. Chí Phèo chết một phần do Thị Nở và cũng chính vì Thị Nở mà một thời Nam Cao “mang tai mắc tiếng” là nhục mạ con người…

1. Nếu tách riêng đoạn văn Nam Cao đặc tả Thị Nở ra thì quả không sai. Bạn đọc dễ nhận thấy: Khó mà tìm được trong văn chương Việt Nam một nhân vật nào của “phái đẹp” mà lại “xấu” đến thế; lại như là hội tụ tất cả những gì kém cỏi nhất của cõi người. “Một người ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích và xấu ma chê quỷ hờn”. Hãy đọc lại đoạn văn tả Thị Nở mà xem, Nam Cao viết: “Cái mặt thị thực là một sự mỉa mai của hóa công: nó ngắn đến nỗi người ta có thể tưởng bề ngang hơn bề dài, thế mà hai má lại bóp lại mới thật là tai hại. Nếu má phinh phính thì mặt thị lại còn được hao hao như là mặt lợn, là thứ mặt vốn nhiều hơn người ta tưởng trên cổ người. Cái mũi thị vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành, bành bạnh muốn chen lẫn nhau với những cái môi cũng cố to cho không thua cái mũi. Có lẽ vì quá cố cho nên chúng nứt nẻ như rạn ra. Đã thế thị lại ăn trầu thuốc, hai môi dày được bồi cho dày thêm một lần, cũng may quyết trầu sánh lại che được cái màu thịt trâu xám ngoách. Đã thế những cái răng lại rất to, lại chìa ra, ý hẳn chúng nghĩ sự cân đối che được vài phần cho sự xấu. Đã thế thị lại dở hơi. Đó là một sự ân huệ đặc biệt của thượng đế chí công”. Một chân dung như thế thì câu ca trên có gì là quá! Chân dung ấy, giọng văn ấy, khiến một thời nhiều người cho Nam Cao đã “phạm tội” mạt sát, nhục mạ con người; có biểu hiện “tự nhiên chủ nghĩa”. Không ít thầy giáo, cô giáo coi đó là hạn chế của Nam Cao... Một trong những nguyên nhân dẫn đến kết luận tai hại trên là người ta đã tách nhân vật này ra khỏi hệ thống hình tượng của toàn bộ tác phẩm; thoát ly hẳn mối quan hệ với nhân vật trung tâm và không xét đến chủ đích nghệ thuật của Nam Cao. Viết tác phẩm Chí Phèo, Nam Cao muốn ném ra giữa cuộc đời một nhân vật “khốn khổ, tủi nhục nhất của người dân cùng ở một nước thuộc địa” (NĐM); một con người bị tước đoạt triệt để trên mọi phương diện; một kiếp người khốn khó bị đẩy xuống “dưới đáy” xã hội, biến thành lưu manh và đã phải trả một giá quá đắt khi muốn trở lại cõi người. Xã hội ấy đã đẩy Chí vào một tình huống nghiệt ngã, tưởng như một nghịch lý: Muốn tồn tại thì phải lưu manh, muốn sống thì phải chết

2. Để làm nổi bật hình tượng trên, toàn bộ các nhân vật khác đều xoay quanh Chí, đều “góp phần” làm cho Chí trở thành “khốn khổ, tủi nhục nhất” trong đám cùng đinh trước Cách mạng tháng Tám (1945). Thị Nở được hình thành và khai sinh không ngoài cảm hứng và chủ đích nghệ thuật đó. Có thể thấy rất rõ rằng Nam Cao đã “cố tình” tạo ra Thị Nở như là “sự mỉa mai của hóa công”. Chẳng thế mà trong đoạn văn đặc tả ngắn ngủi ấy, ông dùng đến ba lần chữ “đã thế”, hai lần “và Thị lại”. Tuy nhiên, sự “cố tình” này của Nam Cao là nhằm tạo ra một hiệu quả nghệ thuật khác. Thị Nở xuất hiện, tính chất bi kịch của cuộc đời Chí tăng vọt tới tột cùng. Như một tỉ lệ thuận, Thị Nở càng xấu thì sự “khốn khổ, tủi nhục” của Chí càng cao. Thị xuất hiện làm sống lại những mong muốn mơ hồ từng có trong Chí: lấy vợ. Và thật tủi nhục cho Chí biết bao: Nào có mơ ước gì “cành vàng lá ngọc”, nào có đòi một Tiên Dung hay một Quỳnh Nga, thậm chí dù chỉ là một người đàn bà bình thường mà “thất bại” cho cam, đây chỉ mong được “một người mà người ta tránh Thị như tránh một vật gì rất tởm”… Chỉ mong ước một người như Thị Nở cũng không được, thế thì còn gì là đáng sống? Thị Nở - Ánh sáng leo lét cuối cùng trong cuộc đời mịt mù của Chí chợt bừng lên rồi tắt ngấm, để lại cho Chí nỗi đau tình phụ và một nỗi uất hận trả thù. Chính Thị là chất xúc tác trực tiếp làm cho phản ứng tự sát của Chí diễn ra nhanh hơn, quyết liệt và bi thảm hơn. Ngẫm kỹ, việc mô tả sự xấu của Thị ở đây, không phải là để “mạt sát” con người mà khắc sâu thêm nỗi đau của con người, về con người.

Mặt khác, việc miêu tả cái xấu của Thị Nở đã mang lại cho thế giới nhân vật của Nam Cao một “Đôi lứa xứng đôi”; trao cho Chí Phèo một tri kỷ “đồng bệnh tương liên”, tạo nên sự đồng cảm, thương xót trước một mối tình thuần hậu đến nao lòng. Nghệ thuật miêu tả ở đây có tác dụng thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc và ý thức trách nhiệm với con người của Nam Cao. Chẳng phải là Chí Phèo và Thị Nở đã yêu nhau sao? Suốt thời gian ấy, Thị cũng làm duyên, cũng e lệ, làm tình, cũng lườm, cũng âu yếm, khi gọi tiếng vợ chồng cũng “ngường ngượng và thinh thích”; khi xa cũng nhơ nhớ, bâng khuâng... cuối cùng cũng đau khổ, say sưa và tức giận... Phải kể tất cả các trạng thái và cung bậc tình yêu ra như thế mới thấy ngòi bút của Nam Cao nhân đạo biết nhường nào.

3. Hỡi ôi! Có mấy ai nghĩ được, tin được hai con người ấy lại có một tình yêu, cũng biết yêu và cần một tình yêu. Nam Cao cất tiếng đòi quyền sống, quyền lương thiện đã đành mà thêm vào đó là quyền được yêu cho những con người đã bị vất ra lề xã hội với biết bao phần người không hoàn thiện. Cái xã hội làng Vũ Đại đã chối bỏ một cách quyết liệt và thẳng thừng “đôi lứa” ấy, nhưng Nam Cao vẫn nhìn thấy trong những con người méo mó, cực nhục này lấp lánh những mảnh vỡ của nhân tính, những ngọn lửa dù leo lét mà vẫn ấm áp tình người. Trong khi gần gũi, yêu đương, Thị Nở đã nhìn thấy ở Chí những điểm tốt lành mà người đời không thấy. Và Chí cũng thấy “Trông Thị thế mà có duyên”, “Xấu mà e lệ thì cũng yêu” và đặc biệt Thị đã khơi gợi được trong Chí ước muốn làm người lương thiện, Chí nghĩ: “Thị sẽ mở đường cho hắn”. Đặt trong bối cảnh xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám thì cách nhìn, cách nghĩ về “đôi lứa” ấy như thế, chẳng phải là một cái nhìn nhân đạo hay sao?

Nam Cao thật vĩ đại. Ông viết như cho mọi thời. Cái nghịch lý muốn tồn tại thì phải lưu manh, muốn sống thì phải chết dường như vẫn đang hiển hiện giữa cuộc đời này.

Nguồn: PGS.TS Đỗ Ngọc Thống
Bài viết liên quan

Phân tích quá trình hồi sinh của Chí Phèo

Chí Phèo ngật ngưỡng bước ra với tiếng chửi vu vơ. Hắn chửi rất bài bản từ cao xuống thấp, từ trừu tượng đến cụ thể. Chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn

Dẫn chứng NLXH hay về người tiên phong, mở đường

Martin Luther King Jr. (1929-1968): Là nhà lãnh đạo lỗi lạc của phong trào dân quyền Mỹ, ông đã đi tiên phong trong việc sử dụng phương pháp đấu tranh bất bạo động để chống lại sự phân biệt chủng tộc. Cuộc đời và sự nghiệp của ông đã truyền cảm hứng cho các phong trào đòi quyền bình đẳng trên khắp thế giới

Điểm hẹn CTVH số 10

Dự án "Tủ sách nuôi em" nằm trong hệ sinh thái "Nuôi em" do Lê Minh Ngọc (sinh năm 2002) ở thị trấn An Lão, huyện An Lão, Hải Phòng quản lý đã mang 61.600 đầu sách đến 15 tỉnh, thành phố. Dự án không chỉ giúp giảm tình trạng thiếu sách mà còn tạo điều kiện phát triển văn hóa đọc, nuôi dưỡng tâm hồn các em nhỏ vùng cao trên cả nước.

Cách xác định đề tài trong tác phẩm tự sự

Đề tài là phạm vi đời sống được thể hiện trong tác phẩm văn học bằng các phương tiện văn học.

Chiến thuật đọc hiểu văn bản văn học

- Trong văn bản thông tin, người truyền tin luôn chú trọng tính khách quan, chú ý mô tả, thuyết minh về một sự vật, hiện tượng nào đó, giúp người đọc nhận diện chính xác, chi tiết về đối tượng. Đó cũng là lí do mà văn bản thông tin được xếp vào loại hình phi hư cấu để phân biệt với văn bản hư cấu hay văn bản nghệ thuật.

Điểm hẹn CTVH số 9

Mới đây, gần 2 tấn thuốc (trong kế hoạch 10 tấn, tương đương 2,5 tỷ đồng), nhằm hỗ trợ người dân chăm sóc sức khoẻ, ứng phó với những căn bệnh nguy cơ trong mùa mưa lũ đã được nhà thuốc FPT Long Châu cấp tốc điều động. Đặc biệt là thuốc cảm cúm, tiêu chảy, bệnh ngoài da tại "rốn lũ" Lào Cai và Yên Bái.

Đề bài: Bằng sự hiểu biết của mình, hãy làm rõ ý kiến: “Với Sang thu, Hữu Thỉnh đã làm mới cho thơ thu”

Mùa thu là mùa nhạy cảm bậc nhất trong năm. Người xưa từng nói: “Thơ là thu của lòng người, thu là thơ của đất trời”, phải chăng đó là mối tương thông, giao hoà kì lạ giữa mùa thu – lòng người và thi ca? Đúng vậy! Mùa thu ban tặng cho thi ca nhiều tứ thơ tuyệt đẹp.

Hiệu ứng tâm lý có thể dùng trong bài viết NLXH

Là hiệu ứng tâm lý thường gặp khi con người luôn bị ám ảnh bởi cảm giác sẽ bỏ lỡ một thông tin, một cơ hội nào đó trong cuộc sống. Vì vậy, họ cố gắng làm những việc đôi khi thừa thãi, những công việc khiến họ khó chịu và gây nghiện chỉ vì sợ bỏ lỡ điều gì đó.

Biểu tượng có thể áp dụng trong bài viết NLXH

Trong thần thoại Hy Lạp, câu chuyện về chiếc hộp Pandora kể về một con gái có tên Pandora. Do tò mò nên Pandora đã mở chiếc hộp quà tặng của thần Zeus. Hậu quả là tất cả cái ác và bệnh dịch trong hộp được giải phóng ra ngoài và xuất hiện tràn lan khắp thế giới.

Đoạn văn NLXH 200 chữ | Vai trò của niềm hy vọng trong cuộc sống

Hi vọng là niềm tin, sự tin tưởng vào những điều tốt đẹp sẽ xảy đến, sống lạc quan, không ngừng nỗ lực trong cuộc sống và công việc để có được cuộc sống tốt đẹp hơn.

Tư liệu liên hệ, mở rộng cho thi phẩm "Sang thu" - Hữu Thỉnh

Khi phân tích hình ảnh “Chim bắt đầu vội vã”, chúng ta có thể liên hệ đến hình ảnh cánh chim được miêu tả trong “Tràng giang” của Huy Cận

Tư liệu liên hệ, mở rộng thi phẩm "Mùa xuân nho nhỏ" - Thanh Hải

Liên hệ quan niệm sống đẹp của tác giả Thanh Hải với nhân vật vô danh trong truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long hay trong lời của bài hát “Tự nguyện” của Trương Quốc Khánh

Dẫn chứng NLXH hay về lòng dũng cảm

Nhận tin báo, anh Văn chạy xe tới thẳng hiện trường, lao vào ngôi nhà đang bốc lửa khói để cứu người thân và cứu thêm được một số nạn nhân. Hành động dũng cảm của anh đã khiến nhiều người không khỏi cảm động

Đoạn văn NLXH 200 chữ | Vai trò của sự khác biệt trong cuộc sống

Trong nhan đề một truyện ngắn của mình John Mason từng viết: “Bạn sinh ra là một nguyên bản. Đừng chết như một bản sao”, câu nói đã để lại trong mỗi người suy ngẫm về sự khác biệt và vai trò của nó trong cuộc sống.

Cảm nhận về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn "Làng"

Ông Hai - nhân vật chính trong truyện ngắn “Làng”, người làng Chợ Dầu. Ông rất yêu làng, không muốn xa làng nhưng vì hoàn cảnh gia đình và theo chính sách của cụ Hồ buộc lòng gia đình ông Hai phải rời làng đi tản cư. Nhưng không phải rời làng là ông Hai bỏ lại sau lưng tất cả mà lúc nào ông cũng trông ngóng dõi theo những biến chuyển của làng quê.

Cảm nhận về nhân vật bác lái xe trong truyện ngắn "Lặng lẽ Sa Pa"

Bác lái xe là nhân vật xuất từ đầu dẫn dắt câu truyện, nhưng cũng kịp thể hiện những nét đẹp trong tính cách. Là người rất yêu công việc, bao nhiêu năm trong nghề lái xe mà vẫn luôn giữ được tính cởi mở, niềm nở có trách nhiệm với công việc, nhạy cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên và con người. Cung đường đi qua không biết bao lần nhưng mỗi một chuyến đi với bác đều như mới.